Thời kỳ lãnh đạo sau Enver Hoxha

các boong-ke tại Albania đã được xây dựng trong thời gian cầm quyền của Hoxha nhằm ứng phó với cuộc xâm lược có thể xảy ra từ bên ngoài. Trên nửa triệu boong-ke đã được xây dựng.

Khi Hoxha tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo, ông ngày càng có quan điểm mang tính lý thuyết. Ông đã viết bài chỉ trích dựa trên các sự kiện đương thời và dựa trên lý thuyết; đáng chú ý nhất là những lời lên án của ông đối với chủ nghĩa Mao Trạch Đông sau năm 1978.[39] Một thành tự lớn dưới thời Hoxha là sự tiến bộ của nữ quyền. Albania từng là một trong những quốc gia có tính gia trưởng nhất, nếu không muốn nói là nhất, tại châu Âu. Bộ luật Lekë, thứ quy định địa vị của phụ, viết rằng, "Một người đàn bà được biết đến như một bao tải, để chịu đựng miễn là khi cô ta sống ở nhà chồng."[40] Phụ nữ không được thừa kế bất cứ thứ gì từ cha mẹ và bị phân biệt đối xử.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân cộng sản Albania đã khuyến khích phụ nữ tham gia vào hoạt động du kích[41] và sau chiến tranh, phụ nữ được khuyến khích đảm nhiệm các công việc tầm thường, bởi nếu muốn làm những công việc ở mức độ cao hơn thì họ cần phải có giáo dục mà điều này thì vượt khỏi tầm với của hầu hết phụ nữ. Năm 1938, phụ nữ chiếm 4% lao động tại các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Năm 1970, con số này đã tăng lên 38% và đến năm 1982 là 46%.[42]

Trong Cách mạnh Văn hóa và Tư tưởng, phụ nữ được khuyến khích để đảm nhiệm "tất cả" các công việc, bao gồm các chức vụ trong chính phủ, dẫn tới kết quả là 40,7% đại biểu ở các Hội đồng Nhân dân và 30,4% đại biểu của Hội nghị Nhân dân là phụ nữ, bao gồm cả hai phụ nữ trong Ủy ban Trung ương vào năm 1985.[43] Năm 1978, số phụ nữ tiếp nhận giáo dục 8 năm cao gấp 15,1 lần so với năm 1938 và số phụ nữ học trung học gấp 175,7 con số năm 1938. Năm 1978, số phụ nữ tiếp nhận giáo dục đại học cao gấp 101,9 lần so với năm 1957.[44]

Toàn đảng và toàn quốc cần phải ném vào lửa và bẻ gãy cổ bất cứ ai dám chà đạp dưới chân các sắc lệnh thiêng liêng của đảng về việc bảo vệ quyền của nữ giới.

— Enver Hoxha, 1967[45]

Năm 1969, thuế trực thu bị bãi bỏ[46] và trong giai đoạn này chất lượng của các trường học và dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiếp tục được cải thiện. Một chiến dịch điện khí hóa đã được bắt đầu vào năm 1960 và toàn bộ đất nước được dự kiến sẽ có điện vào năm 1985. Tuy nhiên, Albania đã đạt được điều này vào ngày 25 tháng 10 năm 1970, khiến nó trở thành quốc gia đầu tiên hoàn thành điện khí hóa trên toàn cầu.[47] Trong Cách mạng Văn hóa và Tư tưởng những năm 1967–1968, quân đội Albania đã chuyển đổi từ sách lược quân đội cộng sản truyền thống và bắt đầu tuân theo chiến lược của chủ nghĩa Mao Trạch Đông được gọi là chiến tranh nhân dân, trong đó bao gồm cả việc bãi bỏ quân hàm, và điều này không được khôi phục hoàn toàn cho đến năm 1991.[48]

Tên riêng của Hoxha trên mặt núi Shpiragu.

Di sản của Hoxha còn bao gồm một tổ hợp gồm 750.000 boong-ke bê tông chứa được một người trên khắp đất nước, chúng có tác dụng làm nơi canh gác và đặt các ụ súng cùng với vũ khí hóa học.[49] Các boong-ke được xây dựng vững chắc và có tính lưu động, nhằm để họ có thể dễ dàng đặt chúng xuống một lỗ đào từ trước bằng một cần cẩu hoặc máy bay trực thăng. Có các loại boong-ke khác nhau như công sự ngầm để súng máy, boong-ke bãi biển, cho đến căn cứ hải quân ngầm.

Chính sách đối nội của Hoxha là tin tưởng vào mô hình của Stalin, và sùng bái cá nhân đã phát triển trong những năm 1970 xung quanh ông, tương tự như đối với Stalin trước đây. Đôi khi nó còn đạt đến một cường độ như việc sùng bái cá nhân Kim Nhật Thành (điều mà Hoxha lên án[50]) theo đó thì Hoxha được mô tả là một thiên tài bình luận trên hầu như tất cả các mặt của đời sống từ văn hóa-kinh tế cho đến các vấn đề quân sự. Mỗi quyển sách giáo khoa được yêu cầu có một hoặc nhiều hơn các lời trích dẫn của ông về môn học được giảng dạy.[51] Đảng Lao động Albania vinh danh ông với các danh hiệu như Đồng chí Tối cao hay Nhà giáo vĩ đại.

Sự cai quản của Hoxha cũng có sự nổi bật khi ông khuyến khích một tỉ lệ sinh cao. Ví dụ một người phụ nữ có số con trên mức trung bình sẽ nhận được phần thường Người mẹ Heroine (Nënë Heroinë) của chính phủ cùng với tiền thưởng.[52] Phá thai về cơ bản bị chính quyền hạn chế (để khuyến khích mức sinh cao) trừ khi việc đứa bé ra đời gây nguy hại đến tính mạng của người mẹ, mặc dù nó cũng không bị cấm hoàn toàn; cách giải quyết sẽ do các hội đồng y tế khu vực quyết định.[53][54] Do vậy, dân số Albania đã tăng từ 1 triệu người vào năm 1944 lên khoảng 3 triệu người vào năm 1985.

Quan hệ với Trung Quốc

Trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba của Albania, Trung Quốc đã hứa hẹn về một khoản vay trị giá 125 triệu Đô la Mỹ để Albania xây dựng 25 nhà máy hóa chất, điện và luyện kim được đề cập đến trong Kế hoạch. Tuy nhiên, quốc gia này đã có một giai đoạn chuyển tiếp khó khăn, do các kỹ thuật viên Trung Quốc có chất lượng thấp hơn các kỹ thuật viên Liên Xô và khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia, cộng với các mối quan hệ tồi giữa Albania và các nước láng giềng, các vấn đề trở nên phức tạp hơn. Không giống như Nam Tư hay Liên Xô, Trung Quốc đã có ảnh hưởng rất nhỏ trên phương diện kinh tế đối với Albania dưới thời Hoxha. 15 năm trước đó (1946–1961), có ít nhất 50% kinh tế Albania dựa trên thương mại nước ngoài.[55]

Do Hiến pháp 1976 nghiêm cấm nợ, viện trợ và đầu tư nước ngoài, Albania về cơ bản trở thành nước tự cung tự cấp, bất chấp việc nước này thiếu các công nghệ hiện đại. Về mặt ý thức hệ, Hoxha nhận thấy quan điểm ban đầu của Mao Trạch Đông phù hợp với chủ nghĩa Marx-Lenin. Mao Trạch Đông lên án chủ nghĩa xét lại của Nikita Khrushchev và đồng thời cũng chỉ trích Nam Tư. Viện trợ đến từ Trung Quốc không tính lãi và không phải hoàn trả cho đến khi Albania có đủ khả năng để làm như vậy.[56]

Trung Quốc đã không bao giờ can thiệp vào sản lượng kinh tế của Albania, và các kỹ thuật viên Trung Quốc làm việc với một mức lương tương tự như các công nhân người Albania, không như các kỹ thuật viên Liên Xô, những người đôi khi được Hoxha trả lương cao gấp ba lần công nhân Albania.[56] Các bài báo Albania được in lại trên báo Trung Quốc và được đọc trên đài phát thanh Trung Quốc. Cuối cùng, Albania đã dẫn đầu phong trào giành ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Hiệp Quốc, một nỗ lực đã thành công vào năm 1971 và do đó nhà nước cộng sản Trung Quốc đã thay thế ghế của Trung Hoa Dân Quốc.[57]

Trong giai đoạn này, Albania trở thành nước sản xuất crom lớn thứ hai trên thế giới, nó được xem là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Albania. Về mặt chiến lược, biển Adriatic cũng thu hút sự quan tâm của Trung Quốc, và giới lãnh đạo Trung Quốc hy vọng sẽ có thêm các đồng minh ở châu Âu với sự giúp đỡ của Albania, song điều này đã thất bại. Chu Ân Lai đã đến thăm Albania trong tháng 1 năm 1964. Ngày 9 tháng 1, "Tuyên bố chung Trung Quốc-Albania 1964" đã được ký kết tại Tirana.[58]

Cả hai [Albania và Trung Quốc] đều cho rằng mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa là một loại hình mới trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa, dù lớn hay nhỏ, kinh tế phát triển hơn hoặc phát triển kém hơn, phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn, tôn trọng chủ quyền và độc lập, và không can thiệp vào các công việc nội bộ của nhau, và cũng cần phải dựa trên các nguyên tắc tương trợ lẫn nhau phù hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nó là cần thiết để chống lại chủ nghĩa Sô vanh nước lớn và vị kỉ dân tộc trong quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Nó cũng tuyệt đối không cho phép áp đặt ý chí của một quốc gia cho một quốc gia khác, hoặc để làm suy yếu độc lập, chủ quyền và lợi ích của nhân dân, của một đất nước anh em với cái cớ 'viện trợ' hoặc 'phân chia lao động quốc tế.'

— Văn bản thảo thuận[59]

Giống như Albania, Trung Quốc bảo vệ "tinh khiết" của chủ nghĩa Marx bằng cách tấn công cả "đế quốc Mỹ" cũng như "xét lại Liên Xô và Nam Tư", cả hai đều là một phần của thuyết "kẻ thù kép".[60] Nam Tư được nhìn nhận là một "biệt đội của chủ nghĩa đế quốc Mỹ" và là một "kẻ phá hoại chống lại cách mạng thế giới."[60] Tuy nhiên, các nhìn nhận này đã bắt đầu thay đổi tại Trung Quốc, một trong những vấn đề chính mà Albania gặp phải trong liên minh này.[61] Cũng không giống với Nam Tư và Liên Xô, liên minh Trung Quốc-Albania thiếu "...một cơ cấu tổ chức để tham vấn thường xuyên và phối hợp chính sách, và có điểm đặc trưng là một mối quan hệ không chính thức được kiểm soát dựa trên một cơ sở đặc biệt." Mao Trạch Đông đã có một bài phát biểu vào ngày 3 tháng 11 năm 1966, trong đó tuyên bố rằng Albania là nhà nước Marxist-Leninist duy nhất ở châu Âu và "một cuộc tấn công vào Albania sẽ cần phải tính đến nhân dân Trung Quốc vĩ đại. Nếu đế quốc Mỹ, xét lại Liên Xô hiện nay hay bất kỳ tay sai nào của họ dám động vào Albania dù là nhỏ nhất, sẽ không có gì ở phía trước dành cho họ mà chỉ có một thất bại hoàn toàn, đáng xấu hổ và đáng nhớ."[62] Tương tự, Hoxha nói rằng "Các bạn có thể yên tâm, những người đồng chí, đến những gì có thể trong thế giới rộng lớn, hai đảng của chúng ta và hai dân tộc chúng ta chắc chắn sẽ sát cánh bên nhau. Chúng ta sẽ chiến đấu cùng nhau và chúng ta sẽ giành chiến thắng."[63]

Trong giai đoạn bốn năm sau Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc ở trong tình trạng tương đối cô lập về ngoại giao, mối quan hệ giữa Trung Quốc-Albania đã lên tới đỉnh cao trong giai đoạn này. Ngày 20 tháng 8 năm 1968, Albania đã lên án việc Liên Xô xâm chiếm Tiệp Khắc. Albania sau đó đã chính thức ra khỏi khối Warszawa vào ngày 5 tháng 9. Mối quan hệ với Trung Quốc bắt đầu xấu đi vào ngày 15 tháng 7 năm 1971, khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang thăm Trung Quốc để hội đàm với Chu Ân Lai. Hoxha cảm thấy mình bị phản bội và chính quyền của ông ở trong tình trạng bất ngờ. Ngày 6 tháng 8, Ủy ban Trung ương của Đảng Lao động Albania đã gửi một bức thư cho Ủy ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó gọi Nixon là một "kẻ chống cộng điên cuồng."

Kết quả là trong một thông điệp năm 1971 của giới lãnh đạo Trung Quốc đã nói rằng Albania không thể phụ thuộc hơn nữa vào một lượng viện trợ không xác định của Trung Quốc và đến năm 1972 Albania được khuyên là nên "kiềm chế những kỳ vọng của mình về những đóng góp hơn nữa của Trung Quốc cho nền kinh tế Albania."[64] Năm 1973, Hoxha đã viết trong nhật ký của mình rằng những lãnh đạo Trung Quốc:

...đã cắt đứt liên hệ của họ với chúng tôi, và các hoạt động giao thiệp mà họ duy trì chỉ đơn thuần mang tính ngoại giao chính thức. Albania không còn là 'người bạn chung thủy, đặc biệt'...Họ đang duy trì các thỏa thuận kinh tế mặc dù với sự chậm trễ, song nó đã khá rõ ràng rằng 'nhiệt tâm' ban đầu của họ đã chết.

— Enver Hoxha[65]

Để đáp trả, Albania đã phát triển thương mại với khối Comecon (riêng thương mại với Liên Xô vẫn bị ngăn chặn) và Nam Tư. Thương mại với các nước Thế giới thứ ba đã đạt 0,5 triệu Đô la Mỹ vào năm 1973, song đã tăng lên 8,3 triệu Đô la Mỹ vào năm 1974. Thương mại đã tăng từ 0,1% đến 1.,6%.[66] Sau cái chết của Mao Trạch Đông vào ngày 9 tháng 9 năm 1976, Hoxha vẫn lạc quan về quan hệ Trung Quốc-Albania, song đến tháng 8 năm 1977, Hoa Quốc Phong, nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc, đã nói rằng Thuyết thế giới thứ ba của Mao Trạch Đông sẽ trở thành chính sách đối ngoại chính thức. Hoxha nhìn nhận điều này là một cách để Trung Quốc biện minh cho việc coi Hoa Kỳ là "kẻ thù thứ hai" trong khi xem Liên Xô là kẻ thù chính, do đó cho phép Trung Quốc có quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. "...kế hoạch 'thế giới thứ ba' của Trung Quốc là một kế hoạch ma quỷ lớn, với mục tiêu để Trung Quốc trở thành một siêu cường khác, chính xác là bằng cách đưa nó trở thành nước đứng đầu trong 'thế giới thứ ba' và 'thế giới không liên kết.'"[67] Từ ngày 30 tháng 8 đến 7 tháng 9 năm 1977, Tito đã đến thăm Bắc Kinh và được giới lãnh đạo Trung Quốc chào đón. Tại thời điểm này, Đảng Lao động Albania đã tuyên bố rằng Trung Quốc nay là một nhà nước xét lại giống như Liên Xô và Nam Tư, và rằng Albania và là nhà nước Marxist-Leninist duy nhất trên Trái Đất. Ngày 13 tháng 7 năm 1978, Trung Quốc thông báo rằng nước này chính thức cắt viện trợ cho Albania. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Albania không có một đồng minh nào.

Nhân quyền

Enver Hoxha năm 1971.

Một số điều khoản trong hiến pháp năm 1976 trên thực tế đã hạn chế việc thực hiện các quyền tự do chính trị.[68] Thêm vào đó, chính phủ từ chối cho người dân tiếp cận các thông tin khác ngoài những thứ đã được các phương tiện truyền thông chính phủ kiểm soát. Về đối nội, Sigurimi cũng thực thiện theo các phương pháp đàn áp của NKVD, MGB, KGB, và Stasi của Đông Đức. "Các hoạt động của nó lan tỏa khắp xã hội Albania đến mức mọi công dân hạng ba đều đã có thời gian bị gửi đến các trại lao động hoặc bị các sĩ quan Sigurimi thẩm vấn."[69]

Để loại bỏ bất đồng chính kiến, chính phủ đã bỏ tù hàng nghìn người trong các trại lao động cải tạo hoặc xử tử họ với các tội danh như phản bội hoặc chống phá chuyên chính vô sản. Việc đi ra nước ngoài bị cấm từ sau năm 1968, trừ những người có nhiệm vụ chính thức. Văn hóa Tây Âu được nhìn nhận với sự ngờ vực sâu sắc, kết quả là các vụ bắt giữ và lệnh cấm các tài liệu nước ngoài trái phép.[70] Nghệ thuật Albania khi đó được phát triển theo chủ nghĩa hiện thức xã hội chủ nghĩa.[71] Việc để râu bị cấm do bị xem là không hợp vệ sinh và để hạn chế ảnh hưởng của Hồi giáoChính Thống giáo.

Hệ thống tư pháp thường xuyên trở thành những phiên tòa có lệ mà thôi. "...[Bị đơn] không được phép hỏi người làm chứng và mặc dù ông ta được phép phát biểu lời phản đối của mình đối với một số khía cạnh của vụ án, những lời phản đối của ông ta sẽ bị công tố viên bác bỏ khi họ nói, 'Ngồi xuống và im lặng. Chúng tôi rõ hơn bạn.'"[72] Để giảm bớt mối đe doạ của các nhà bất đồng chính kiến và những người lưu vong khác, những người thân của bị can thường bị bắt giữ, bị tẩy chay, và bị cáo buộc là "kẻ thù của nhân dân".[73]

"Có sáu chỗ cho các tù nhân chính trị và 14 trại lao động, nơi các tù chính trị và tội phạm thông thường làm việc với nhau. Ước tính rằng có xấp xỉ 32.000 người bị cầm tù tại Albania vào năm 1985."[74] Điều 47 trong Bộ luật Hình sự Albania nói rằng "trốn ra khỏi đất nước, cũng như từ chối trở về Tổ quốc đối với một người được gửi đi để phụng sự hay được phép tạm thời đi ra bên ngoài đất nước" là tội phản quốc và bị trừng phạt tối thiểu mười năm tù hoặc thậm chí là bị tử hình.[75]

Tôn giáo

Albania là một quốc gia châu Âu có cư dân chủ yếu theo Hồi giáo, chủ yếu là do ảnh hưởng của đế quốc Ottoman, và tôn giáo trở thành một bản sắc dân tộc. Trong đế quốc Ottoman, người Hồi giáo được nhìn nhận là người Thổ Nhĩ Kỳ, các tín hữu Chính Thống giáo Đông phương được nhìn nhận là người Hy Lạp và tín hữu Công giáo được nhìn nhận là người Latinh. Hoxha tin rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng, ông thấy rằng nó khuyến khích những người Hy Lạp ly khai tại Bắc Epirus và gây chia rẽ đất nước nói chung. Luật cải cách ruộng đất vào năm 1945 đã tịch thu nhiều tài sản của giáo hội tại Albania. Những người Công giáo là cộng đồng đầu tiên bị nhắm đến, lý do là vì Tòa Thánh bị chính phủ nước này nhìn nhận là một nhân tố phát xítchống cộng.[76] Năm 1946, Dòng Tên và đến năm 1947 là Dòng Fran-xít đã bị cấm. Nghị định số 743 (về Tôn giáo) đã mưu cầu một giáo hội quốc gia và cấm các nhà lãnh đạo tôn giáo liên hệ với các thế lực nước ngoài.

Đảng tập trung vào việc giáo dục vô thần trong trường học. Chiến thuật này đã có hiệu quả, chủ yếu là do chính sách tỷ lệ sinh cao sau chiến tranh. Trong các dịp lễ như Ramadan hay Mùa Chay, nhiều loại thực phẩm bị cấm (các sản phẩm bơ sữa, thịt...) được phân phát trong các trường học và nhà máy, những người từ chối ăn những thực phẩm này sẽ bị lên án. Bắt đầu từ ngày 6 tháng 2 năm 1967, Đảng Lao động Albania bắt đầu một cuộc tấn công mới chống lại tôn giáo. Hoxha, người đã tuyên bố thực hiện "Cách mạng Văn hóa và Tư tưởng" lấy cảm hứng một phần từ Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, đã khuyến khích các học sinh và công nhân cộng sản sử dụng các chiến thuật mạnh mẽ hơn để thúc đẩy chủ nghĩa vô thần, mặc dù bạo lực bước đầu đã bị lên án.[77]

Theo Hoxha, sự gia tăng hoạt động chống tôn giáo bắt nguồn từ giới trẻ. Kết quả của "phong trào tự phát, vô cớ" là việc đóng cửa tất cả hai.169 nhà thờ Ki-tô giáo và Hồi giáo tại Albania. Thuyết vô thần quốc gia trở thành chính sách chính thức, và Albania tuyên bố là quốc gia vô thần đầu tiên trên thế giới. Chính phủ đã đổi các tên gọi đô thị dựa trên tôn giáo, cũng như các tên riêng. Trong giai đoạn này, các tên gọi dựa trên tôn giáo cũng bị coi là bất hợp pháp. Từ điển tên của nhân dân, xuất bản năm 1982, bao gồm 3.000 tên gọi thế tục được phê duyệt. Năm 1992, Đức ông Dias, Đại sứ Giáo hoàng Albania do Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm, đã cho biết trong số 300 linh mục Công giáo hiện diện ở Albania trước khi cộng sản lên nắm quyền, chỉ còn 30 người sống sót.[78] Tất cả các nghi lễ và giáo sĩ tôn giáo bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và những nhân vật tôn giáo từ chối từ bỏ vị trí của họ đã bị bắt giữ hoặc bị buộc phải trốn tránh.[79]

Nuôi dưỡng dân tộc chủ nghĩa

Enver Hoxha đã tuyên bố trong chiến dịch chống tôn giáo rằng "tôn giáo duy nhất của người Albania là chủ nghĩa Albania,"[80] một trích dẫn từ bài thơ O moj Shqypni ("O Albania") của nhà văn Albania thế kỉ 19 Pashko Vasa. Các nỗ lực tập trung vào vấn đề kết nối người Illyria-Albania[81] và chứng minh lịch sử Hy Lạp cổ đại là của người Albania.[81]

Nguồn gốc Illyria của người Albania (không phủ nhận nguồn gốc Pelasgia[82]) tiếp tục đóng vai trò đáng kể trong chủ nghĩa dân tộc Albania,[83] kết quả là một sự hồi sinh những cái tên được cho là có nguồn gốc "Illyria", song chúng lại liên quan đến Kitô giáo. Đầu tiên, các nhà văn dân tộc chủ nghĩa Albania đã chọn người Pelasgia làm tổ tiên của người Albania, song dưới thời Enver Hoxha, người Pelasgia chỉ là một yếu tố thứ cấp[84] cho học thuyết Illyria về nguồn gốc của người Albania, nó cũng được một số ủng hộ từ các học giả.[85]

Thuyết nguồn gốc Illyria nhanh chóng trở thành một trong các trụ cột của chủ nghĩa dân tộc Albania, đặc biệt là bởi vì nó có thể cung cấp một số bằng chứng về sự hiện diện liên tục của người Albania cả tại Kosovo và ở miền nam Albania, tức là các khu vực xung đột sắc tộc giữa người Albania, người Serb và người Hy Lạp.[86] Dưới thời chính quyền Enver Hoxha, một chủ nghĩa nhân chủng học bản địa[81] đã được thúc đẩy và các nhà nhân chủng học[81] đã cố gắng để chứng minh rằng người Albania khác biệt so với bất kỳ dân tộc Ấn-Âu nào khác, một thuyết mà nay đã bị bác bỏ.[87] Những nhà khảo cổ học Albania thời cộng sản đã tuyên bố rằng[81] các thành bang, vị thần, tư tưởng, văn hóa và các nhân vật nổi bật của Hy Lạp cổ đại hoàn toàn là người Illyria (ví dụ như Pyrros của Ipiros[88] và vùng Epirus[89]).

Họ tuyên bố rằng người Illyria là dân tộc cổ xưa nhất[81][90] tại Balkan và đã mở rộng đáng kể thời kỳ của tiếng Illyria.[81][91] Điều này vẫn tiếp tục tại Albania thời hậu cộng sản[81] và truyền bá sang Kosovo.[81][92] Các thuyết dân tộc chủ nghĩa này vẫn còn lại hầu như nguyên vẹn cho đến ngày nay.[81]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Enver Hoxha http://books.google.ca/books?id=67Hoe3h5XqsC&dq=al... http://books.google.ca/books?id=OxcZU0ZX61UC&pg=PA... http://archive.250x.com/hoxha.html http://www.albanian.com/main/history/hoxha.html http://www.gadling.com/2008/06/26/letter-from-alba... http://books.google.com/books?id=E0U104S4msoC&prin... http://books.google.com/books?id=wGA4o-UhAfgC&pg=P... http://www.lilianahoxha.com/ http://www.nature.com/ejhg/journal/v8/n7/pdf/52004... http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9E0...